Để quản lý ao tôm hiệu quả trong mùa mưa, người nuôi cần chú ý đến việc gia cố bờ ao, cống thoát nước, và kiểm soát lượng thức ăn để tránh các vấn đề như phân tầng nhiệt độ, giảm ôxy, và tích tụ khí độc. Đồng thời, tập trung vào việc ổn định các yếu tố môi trường như pH, độ kiềm, nhiệt độ, và hàm lượng ôxy hòa tan.
Chủ động kiểm tra ao nuôi
Đối với những ao chưa thả nuôi, cần cải tạo ao ban đầu thật kỹ nhằm loại bỏ các vật chủ trung gian mang mầm bệnh, như: tép, hến, ốc định,.. Đồng thời, thiết kế mô hình nuôi tôm lót bạt khung sắt, khung xi măng dưới hình thức ao nổi hoặc ao chìm từ 2 - 3 giai đoạn, trong đó giai đoạn ương ban đầu từ 15 - 25 ngày để hạn chế dịch bệnh chết sớm trên tôm và thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu.
Những ao chuẩn bị thả giống, cần theo dõi thông tin dự báo thời tiết để chọn ngày thả cho thích hợp; tránh thả giống vào những ngày mưa lớn hoặc ngay sau những ngày mưa lớn vì rất dễ gây sốc cho tôm, giảm tỷ lệ sống.
Con giống phải qua xét nghiệm ít nhất 3 loại bệnh nguy hiểm trên tôm như: đốm trắng, hoại tử gan tụy cấp, vi bào tử trùng. Với kích cỡ thả giống đối với tôm sú phải đạt tối thiểu chiều dài 12 - 15 mm và tôm thẻ chân trắng là 9 - 11 mm. Con giống trước khi thả phải thuần dưỡng cho quen dần với các yếu tố: pH, nhiệt độ, độ mặn, độ kiềm trong bao chứa giống với nước ao nuôi ít nhất 1 giờ. Song song đó, thả giống với mật độ vừa phải, đối với tôm thẻ chân trắng: ao đất từ 30 - 80 con/m2, ao lót bạt đáy 90 - 120 con/m2, ao tròn nổi 180 - 200 con/m2; tôm sú 15 - 20 con/m2.
Trường hợp những ao đang có tôm, cần kiểm tra, gia cố bờ bao và hệ thống cống chắc chắn tránh trường hợp bị sạt lở. Vệ sinh kênh thoát nước đảm bảo thông thoáng, khi mưa có lượng nước nhiều kịp thời xả tràn nhằm hạn chế thất thoát tôm nuôi. Đối với mô hình nuôi tôm thâm canh, siêu thâm canh cần kiểm tra lại toàn bộ hệ thống mái che và lưới che ao nuôi trách tác động trực tiếp đến sức khỏe tôm.
Đối với các vùng đất bị chua phèn, cần rắc vôi quanh bờ phòng nước trôi phèn xuống làm biến động pH ao nuôi. Đồng thời cần chuẩn bị máy phát điện, máy sục khí đề phòng khi điện lưới bị mất.
Quản lý
Giữ ổn định mực nước ao nuôi từ 1 - 1,2 m (đối với tôm - lúa từ 0,8 m tính từ mặt ruộng) và các yếu tố môi trường, như: độ pH, độ kiềm, độ mặn, khoáng chất luôn nằm trong ngưỡng tối ưu của tôm.
Trước hoặc sau những trận mưa lớn nên kiểm tra các yếu tố môi trường và có biện pháp xử lý điều chỉnh thích hợp. Che lưới lan ao nuôi và tăng cường quạt nước để tránh phân tầng nhiệt độ, giảm sự chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm; định kỳ lấy mẫu nước kiểm tra mật số vi khuẩn Vibrio spp gây hại trong ao tôm với tần suất 2 lần/tuần cùng với đó khống chế mật số Vibrio spp dưới 1.000 CFU/ml.
Thời điểm mưa dầm kéo dài, thời tiết lạnh, nhiệt độ trong nước < 27°C nên giảm số lần cho tôm hoặc giảm 30 - 50% lượng thức ăn. Đồng thời cần tăng cường sử dụng vi sinh, men tiêu hóa để hỗ trợ đường ruột giúp tôm tiêu hóa tốt thức ăn, làm sạch môi trường nước ao nuôi,.. Đảm bảo lượng ôxy hòa tan trong nước > 5 mg/lít để đảm bảo tôm tiêu hóa và chuyển hóa thức ăn tốt hơn.
Tăng cường sử dụng chế phẩm sinh học để xử lý nước và đáy ao, đặc biệt là các dòng Bacillus spp, Rhodobacter spp. Thường xuyên bổ sung các loại khoáng chất để tôm hấp thu tốt thức ăn và tăng cường sức đề kháng.
Người nuôi cần dự trữ đủ các loại vôi, khoáng chất, chế phẩm sinh học... để xử lý kịp thời các tình huống xấu thường xảy ra trong mùa mưa.
Một lưu ý quan trọng đối với người nuôi là cần phải thực hiện đăng ký khai báo nuôi trồng thủy sản và khai báo dịch bệnh theo quy định. Khi tôm bị thiệt hại không che giấu dịch bệnh, tuyệt đối không xả bừa bãi nước thải, tôm chết và bùn thải ra môi trường bên ngoài để tránh gây ô nhiễm và lây lan dịch
bệnh.
Nguồn : Thuỷ sản Việt Nam